Chuyện ít biết về những người Nhật bên lề phường hội

Những ngày cuối tuần, nườm nượp người qua lại trên đường phố tại huyện Ikebukuro, trung tâm thủ đô Tokyo của Nhật Phiên bản. Dù trời đã tối và đang là mùa hè, nhưng Ran Yagasa vẫn kéo cao mũ, để che được càng nhiều gương mặt bản thân càng tốt. Anh cứ đi bộ vật vờ, mà không biết chính mình sẽ trở về đâu.

Chệch các con phố ray

Năm nay 35 tuổi, Yagasa đã rời trường trong khoảng cách đây 20 năm, khi bị bạn học đe và tẩy chay. Bác mẹ anh khi đó cũng đã cố gắng thuyết phục con trở lại trường, nhưng mỗi lần nỗ lực, Yagasa lại càng bị đe phổ thông hơn.

Ba má anh chuyển cho anh sang trường mới, nhưng anh cũng không thể thích nghi, và sau cùng họ đành để mặc cho đứa con lớn lên trong thui thủi. Ban ngày, Yagasa giam bản thân mình trong phòng độc đáo, và liệt kê ngoài khi tối trời.

Xã hội Nhật thường có một trật tự luân chuyển mà người ta hay gọi nó là trục đường xe lửa một tuyến: học hết phổ thông rồi sẽ vào đại học, hết đại học sẽ cống hiến trọn đời cho công ty nào đó, lập mái nhà, và cứ thế đi làm cho tuần tự từ năm này qua năm khác, cho tới hết cuộc thế.

Thế nhưng số lượng suất tham gia đại học chỉ có hạn, và đôi khi thi cử cũng đi kèm với yếu tố hên. Trong một phố hội với hoạt động kinh tế cốt yếu dồn vào một chỗ vào các cơ quan, ví như không có bằng cấp tử tế để tham gia được những công ty đó làm việc, sẽ cực khó khăn để một con người có thể được “sống” đích thực trong phố hội.

Hay nói phương pháp khác, chỉ một lần thất bại, nhân loại ta gần như thường còn cơ hội để đứng dậy.

Tương tự Ran Yagasa, Daichi Goro cũng là một trường phù hợp như thế. Anh từng nỗ lực thi vào trường mỹ thuật mà chính mình thích nhất. Thế nhưng ở Nhật, để theo học được trường mỹ thuật cần đến sự đầu tư rất lớn trong khoảng mái ấm ngay khi còn học rộng rãi. Cha mẹ Goro vốn chỉ làm cho ở tổ chức kinh doanh nhỏ xíu với mức lương thấp, nên không có nhân tố kiện đầu cơ như vậy.

Không tham gia được trường bản thân hy vọng, Goro cũng không còn cảm thấy yêu mến với bất kỳ ngành nghề nghề nào khác. Anh vẽ đầy đủ những bức ảnh chỉ được treo trong phòng của mình. Từ đó, anh cũng rời xa dần thị trấn hội.

Cha mẹ Goro sau đa dạng năm bàn cãi kịch liệt với đại trượng phu cũng đã trở nên buông xuôi, im thin thít và mệt mỏi. Tới bữa ăn, khay đồ ăn cho anh được đặt ở cửa phòng kèm với mấy tiếng gõ cửa. Goro lấy tham gia ăn và chỉ xuống nhà rửa bát cho bản thân khi anh cam kết bác mẹ đã đi ngủ hết.

Anh em tuần tự tham gia đại học rồi đi làm cho, giữa Goro và họ cũng không còn phổ thông điểm giống hệt để thủ thỉ. Anh chính thức biến thành một hikikomori trong tiếng Nhật, hay còn gọi là những người bên lề thị trấn hội.

Có trong khoảng khi nào?

Thuật ngữ hikikomori được dùng để nói tới những người chủ động rời bỏ thị trấn hội và khép bản thân mình trong thế giới riêng. “Hiku” có tức thị kéo, “komori” trong tiếng Nhật là nghỉ ngơi. Dịch dễ chơi, hikikomoro có nghĩa “tự tháo lui và nghỉ ngơi”. Triệu chứng này mang tính tâm lý đa dạng hơn bệnh lý.

Phổ quát người tin rằng hikikomori là sản phẩm của thị trấn hội Nhật tân tiến, thế nhưng theo tìm hiểu với tựa đề “The Japanese hikikomori phenomenon: Acute social withdrawal among young people” của GS. Andy Furlong đăng tải trên The Sociological Review năm 2008, dù thuật ngữ hikikomori được sử dụng lần đầu tiên bởi nhà nghiên cứu Norihiko Kitao tham gia năm 1986, nhưng hiện tượng này sinh tồn ở Nhật ít ra trong khoảng thập niên 1950, tức thị trong khoảng sau thế chiến thứ nhì.

Nhiều cuốn tiểu thuyết xuất bản vào thập niên 1950 đã mô tả về cuộc sống của nhiều sinh viên trung học từ chối ra khỏi nhà hoặc xúc tiếp với bạn cùng trang lứa. Đến năm 1970, các nhà giáo dục và chuyên gia tâm lý học khởi đầu lúng túng về việc số lượng những người có cách thức sống như trên ngày một tăng thêm.

Không ít người hiểu lầm rằng những hikikomori không bao giờ ra khỏi nhà. Tuy nhiên, trong thực tại cách hành xử của họ cũng rất khác nhau. Có người gần như không bao giờ ra khỏi nhà, có người hàng ngày vẫn xách cặp, túi ra khỏi nhà như đi học đi làm, nhưng thực ra họ lang thang vô định hết đường này phố khác hoặc leo lên xe điện đi nói quanh. Họ rời nhà từ rất sớm để giảm thiểu không gặp gỡ bạn học cũ hay hàng xóm.

Tới công đoạn mạng Internet tạo ra, các hikikomori chính yếu giữ giao thông và khám phá về quả đât bên ngoài duyệt máy tính. Họ đọc tin, tham gia các diễn đài xem điều gì diễn ra xung quanh bản thân mình. Họ đọc đông đảo sách báo mà họ có thể tiếp xúc được.

Hikikomori không phải ngu dốt, thậm chí theo nhà nghiên cứu tâm lý Yusuke Takatsuka, khi ông tiếp xúc với họ, ông cảm thấy số lượng những người có khả năng tư duy và phản biện tốt chẳng phải ít. Họ nắm rất vững nhiều nhân tố đang diễn ra trên quả đât, chỉ đơn giản là, họ không muốn giao tiếp với ai.

Cho đến nay, các nhà nghiên cứu tại Nhật vẫn tranh biện với nhau phần lớn về số lượng hikikomori thực tiễn trong phố hội Nhật.

Năm 2007, chưng sỹ tâm lý người Nhật Tamaki Saito với trải nghiệm 40 năm vấn đề trị tâm lý chắc chắn, từ số lượng những ca vấn đề trị tâm lý mà ông đã chấp hành trong thế cuộc làm cho nghề của bản thân mình, số lượng hikikomori trong phố hội Nhật ước khoảng 1 triệu người.

Bác sỹ tâm lý học Yusuke Takatsuka năm 2006 đưa ra con số từ 640 nghìn người tới 1 triệu người. Trên thực tiễn, cực khó khăn để có được những con số thực thụ chính xác về số lượng hikikomori bởi truyền thông cũng như giới chức Nhật thường tránh né điều này.

Nhà báo Mỹ Michael Zielenziger với cuốn sách rất nhiều người biết đến nói về hikikomori có tên “Shutting out the sun”, nhị nhà tìm hiểu Saito Tamaki và Jeffrey Angles với cuốn sách “Hikikomori: Adolescence without end” đều đồng thuận với con số khoảng trong khoảng 700 nghìn đến 1 triệu người, tức khoảng gần 1% dân số Nhật.

Ai sẽ giúp họ?

Những năm cách đây không lâu khi dân số Nhật ngày càng già đi, tổng dân số cũng như đội ngũ công sức ngày một sụt giảm, vấn đề của những người hikikomori được nhiệt tình đa dạng hơn.

Trên phương diện kinh tế, hiện tượng hikikomori đã lấy đi của nước Nhật phổ quát công trạng mà lẽ ra họ đang trong độ tuổi sung sức nhất. Giới chức Nhật Bản chẳng thể không lo âu về điều gì sẽ xảy ra với hikikomori khi phụ vương mẹ họ về hưu hoặc khuất.

Tại thức giấc Fukuoka, một trọng tâm phù hợp tác quốc tế nghiên cứu về hikikomori đã được kiến tạo bí quyết đây 4 năm. Trung tâm này chịu nghĩa vụ phân tích về hiện tượng phường hội đó, song song hỗ trợ cho những hikikomori theo con đường dây nóng. Họ cũng chuẩn bị tổ chức riêng các buổi trị liệu, tư vấn tâm lý.

Viên chức trọng tâm cho nhân thức họ nhận được phần lớn cuộc gọi, căn bản tới từ cha mẹ của những hikikomori. Cũng có một vài hikikomori chịu xuất hiện tại trọng điểm, và chỉ một phần rất nhỏ tuổi trong số họ được điều trị chiến thắng.

Theo nhì tác giả Saito Tamaki và Jeffrey Angles, tâm lý coi long trọng diện quá mức của đa dạng bậc phụ vương mẹ Nhật Bản chính là nhân tố khiến cho bệnh của con họ trở thành nặng hơn. Có những bà mẹ luôn muốn giấu đứa con của bản thân mình trong nhà, không muốn cho con xúc tiếp với ngay cả họ hàng gần gũi như bác ruột, chú ruột. Họ không muốn người khác nhìn tham gia họ với ánh mắt coi thường rằng họ đã không thể nuôi dạy nên những đứa con thành công.

Thời điểm qua đi, cảm thấy tự phiên bản thân không thể thay đổi được tình hình, họ ưng ý và bỏ mặc đứa con của mình. Vậy nên, nhiều gia đình giàu có vẫn có hikikomori, họ thuê riêng người giúp việc hàng ngày nấu cơm mang cơm tới cửa phòng cho con, để đó và sau khoảng thời gian nhất thiết quay lại mang khay cơm đã ăn hết, hoặc cũng có ngẫu nhiên được đụng đến miếng nào.

Cuộc sống như vậy cứ lần lượt trôi đi.

“Đặc biệt” Nhật Bản

Nhà tìm hiểu Saito Tamaki khẳng định rằng, thực ra hikikomori chẳng phải vấn đề của riêng nước Nhật, mà có thể xảy ra ở bất kỳ thị trấn hội nào từng trải qua quá trình công nghiệp hóa phát hành bùng nổ rồi sau đó rơi tham gia khủng hoảng.

Thế nhưng chính cách xử sự của người Nhật, khi thường cố che đậy nhân tố, đã khiến hiện trạng hikikomori ngày một tệ hơn.

Theo GS. Saji Motorhide tại Đại học Chicago University (Mỹ), các hikikomori Nhật ví như sống trong bối cảnh thị trấn hội Mỹ đã có thể trở thành những kỹ sư công nghệ lành nghề, hay nhà văn, nhà sáng tác - những nghề nghiệp yên cầu tài năng phân tích chủ quyền và dồn vào một chỗ, mà không hề giao tiếp rộng rãi.

Cái đáng tiếc nuối với đa dạng hikikomori, chính là họ được hiện ra trên đất Nhật.

Với văn hóa phương Tây, nhà phân tích Shinichi Kato chắc chắn: “Khi vấn đề gia đình gần giống xảy ra ở các nước phương Tây, thì với văn hóa linh hoạt, các bậc phụ vương mẹ sẽ không có xu thế che đậy mà sẽ trực diện cùng với mái nhà, người nhà hỗ trợ hikikomori, ân hận thúc thậm chí cưỡng ép con ra ngoài, tạo điều kiện cho con giao thiệp nhiều hơn với nhiều người. Bằng phương pháp đó, các em sẽ hiểu phổ biến hơn về cách thức đứng lên sau thất bại”.

Có tín hiệu đáng mừng rằng tại các trọng tâm hỗ trợ cho hikikomori tại Nhật, phổ biến bác sỹ tâm lý đã có cách tiếp xúc hiệu quả hơn. Bà Michiko Tanaka, chủ toạ một trọng điểm phi lãi chuyên hỗ trợ cho các hikikomori, luôn đón các bệnh nhân hikikomori với nụ cười rạng ngời, kiên nhẫn ngồi hàng giờ để nói phổ thông câu chuyện vui miệng, nữ tính, không mang nội dung phán xét.

Phổ quát hikikomori ngồi hàng giờ và giữ nguyên thái độ câm yên ổn, nhìn chăm bẳm tham gia bác sỹ và không có bất cứ phản ứng nào. Nhưng số ít trong đó sau cùng cũng giận dữ và hội thoại với bác bỏ sỹ.

Mỗi 04 tuần, bác bỏ sỹ chia nhau ra đến nhà các hikikomori mà họ tiếp xúc được, rủ các hikikomori ra ngoài đi uống cà phê hoặc nhập cuộc vài hoạt động, nhằm giúp những người này tự tin hơn trong giao du phường hội.

Theo Ngọc Diệp

VnEconomy


Xem thêm: tạo video từ ảnh và nhạc
>

Tìm kiếm Blog này

  • ()
  • ()
Hiện thêm